63 Stravel

[Review] Lăng Minh Mạng

Thảo luận trong 'Tin tức-Kinh nghiệm du lịch tại Huế' bắt đầu bởi Thăm Huế 24h, 20 Tháng chín 2020.

    1. Tỉnh thành:

      Toàn Quốc
    2. Chuyên mục:

      Rao vặt
    3. Tình trạng:

      Tin mới nhất
    1. Giá bán :

      0 VNĐ
    2. Địa Chỉ:

    3. Thông Tin:

      20 Tháng chín 2020, 0 Trả lời, 363 Đọc
  1. Lăng vua Minh Mạng

    Hai mươi năm tại vị, Minh Mạng đã mang lại cho nước Đại Nam hùng mạnh và triều Nguyễn một tiền đồ mới. Và người đàn ông ấy đã nằm xuống giữa “thiên đường trần gian” đầy tiếng chim hót, hoa đua nở… với sự thanh thản và mãn nguyện trọn vẹn. Lăng Minh Mạng được nhiều du khách yêu thích nhất vì nó thể hiện ý chí độc đáo của người Việt Nam về vũ trụ quan, là một nét đẹp có giá trị tư tưởng.

    [​IMG]

    Làm vua được 7 năm, đến năm Minh Mạng thứ 7, 1826, vua Minh Mạng cho dân tìm đất để xây lăng Sơn cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn thế đất tốt ở núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành dòng sông Hương thơ mộng. Tuy nhiên, 14 năm sau, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định xây dựng lăng mộ của mình tại nơi này. Đích thân vua Minh Mạng đến tận nơi xem xét và duyệt bản thiết kế. Vua đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Tháng 4 năm 1840, việc xây dựng Hiếu Lăng bắt đầu. Bốn tháng sau, Minh Mạng ra kiểm tra, thấy công việc đào hồ Trung Minh không đạt yêu cầu nên giáng chức giám sát và đình chỉ công việc. Một tháng sau, đang tiếp tục công việc thì Minh Mạng lâm bệnh vào tháng 1 năm 1841. Vua Thiệu Trị lên ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2 năm 1841) đã huy động gần 10.000 binh lính và công nhân xây dựng. Tiếp tục công việc theo đồ họa của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được an táng tại Bửu Thành, nhưng đến đầu năm 1843 việc xây dựng lăng mới hoàn thành.

    [​IMG]

    Lăng Minh Mạng nhìn từ trên cao

    Nếu như Lăng Tự Đức được coi là bức tranh sơn thủy hữu tình, phản ánh nhân cách của vị vua Tự Đức thì lăng Khải Định là nơi giao thoa giữa hai nền văn hóa Đông Tây, thể hiện tính cách ngoại tộc. của Khải Định, Lăng Minh Mạng bộc lộ đầy đủ tư cách của một vị vua đáng ngưỡng mộ. Minh Mạng lên ngôi khi chế độ quân chủ tập trung của nhà Nguyễn được củng cố triệt để ở điểm cao. Từ việc chỉnh đốn thể chế, kỷ cương trên cả nước đến việc bố trí lại vị trí các công trình kiến trúc trong Hoàng thành và quy hoạch lăng tẩm cho chính mình cũng thể hiện rõ cá tính và phong cách của chính vị vua. Minh Mạng. Là người tinh thông Nho học, mộ đạo Nho, không ưa phương Tây, toàn bộ bố cục kiến trúc của lăng Minh Mạng được xây dựng trên cơ sở những tư tưởng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Bên trong La Thành xây bằng gạch có chu vi 1732m, các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng từng cặp qua trục hướng tâm chính của lăng là trục Thần đạo. Tất cả được sắp xếp theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, giống như tình trạng của xã hội đương thời, một xã hội được tổ chức theo chính sách trung ương quân chủ tôn sùng Nho giáo sâu sắc. đa. Mặc dù vậy, trong bài nghiêm khắc, độ cao thấp cứ lên xuống nhịp nhàng, ngắt quãng, nhiều điểm cao, nhiều vùng trũng cứ cạnh tranh nhau mạnh mẽ, luôn đổi mới một cách bất ngờ. kinh ngạc.

    [​IMG]

    Ngôi đại đình được lát bằng gạch Bát Tràng, chính giữa là Đại Hồng Môn.

    Công năng chính của La Thành là bảo vệ lăng nhưng lại uốn lượn mềm mại, đơn giản không theo hình khối hình học nên dù cao 3m nhưng vẫn không gây cay mắt. Nhìn trên bình diện rộng lớn, tòa thành chỉ là một giới hạn quy ước để không gian từ xa đi vào trung tâm lăng mà không đứt mạch, không gián đoạn, khiến cho Lăng dù có khuôn viên riêng vẫn có cảm giác như một bức hoành phi. tráng, khuất tầm nhìn xa. Các cung điện, lâu đài, đình làng được bố trí trên một trục dọc theo Thần đạo dài 700m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến Bửu Thành. Giữa các công trình kiến trúc là những hồ nước thơm ngát hương sen và những ngọn đồi rợp bóng thông, tạo nên một cảnh quan vừa hữu tình vừa ngoạn mục.

    [​IMG]

    Dai Hongmen


    Phía trước lăng theo hướng sông Hương, La Thành được xây dựng rất thẳng góc với linh đường. Chính giữa đường thẳng đó là lối vào chính của lăng gọi là Đại Hồng Môn, đây cũng là nơi xuất phát của con đường Thần đạo. Đại Hồng Môn xây bằng gạch vôi, cao 9m, rộng 12m. Cổng này có ba lối đi bằng 24 lá với các mái cao thấp và các đồ án trang trí cá chép, hóa rồng,… được coi là đặc trưng của loại hình tam quan thời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa linh cữu vua vào lăng, sau đó đóng lại cho đến nay, ra vào ngay hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn ở hai đầu đoạn thẳng La Thành phía trước. . Đây cũng là những cổng hiện đang cho phép du khách vào thăm Lăng.

    Phía sau Đại Hồng Môn là Bái Đính, được lát bằng gạch Bát Tràng (sân rộng 45x45m), hai bên có hai hàng tượng quan văn, võ tướng, ngựa đá đứng sừng sững dưới nước. Mặt tiền La Thành phối hợp với Bái Đính tạo nên sự vuông vức và ấn tượng cho khu vực lăng. Bên cạnh tòa là Bi Đình, nằm trên một khu đất cao, được đào lên bởi hồ Trung Minh, gọi là Phụng Thần Sơn, trong đó có bia đá hình chữ nhật (3,10m x 1,60m) còn gọi là bia đá. “Đức Thánh Trần” của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công lao của vua cha.

    [​IMG]

    Hiền Đức Môn

    Đi qua đình là Tòa nhà Triều lễ với ba cấp tượng trưng cho trời, đất, nhân (tam tài) kéo dài đến Hiển Đức Môn. Hiển Đức Môn nằm ở giữa Thần Đạo, phía trên có vọng lâu và lối vào khu tẩm điện. Khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp để thể hiện hình vuông của mặt đất (từ khái niệm trời tròn, đất vuông). Chính giữa bức tường vuông của tẩm điện là Điện Sùng Ân, được kết cấu theo kiểu hình ốc. Tiền điện bảy phòng: điện chính năm gian. Điện Sùng Ân là nơi thờ Hoàng đế Minh Mạng và Hoàng hậu Tả Thiên Nhãn. Sân trước của điện Sùng An, cùng với Tả Tùng Tự và Hữu Tùng Tự là hai miếu thờ các vị thần dưới thời vua này. Sân sau được chia sẻ với các phần bên trái và bên phải. Đối xứng với Hiển Đức Môn (phía trước) là Hoàng Trạch Môn (phía sau), cũng trên trục Thần Đạo, là điểm cuối của khu tẩm.

    [​IMG]

    Diên An An

    Xung quanh điện Sùng Ân, các công trình khác nằm rải rác trên các ngọn đồi: Tả Tung phòng trên Tịnh Sơn, Hữu Tung phòng trên Y Sơn; Tuần lộc Hiền ở Đức Hòa Sơn; Linh Phượng Các ở Khai Trạch Sơn, Quan Lạn Sở trên Đạo Thông Sơn; Truy Tử Trai trên Phúc ấm Sơn; Hoài Hoài Tả trên đảo Trấn Thủy… Tất cả đều được bố trí nhặt khoan như hành tinh nhỏ quay quanh hành tinh lớn là cung Sùng Ân trên Phụng Thần Sơn, một biểu tượng của trái đất.

    Bên trong điện Sùng Ân là nơi thờ bài vị của Minh Mạng và Tả Thiên Nhân hoàng hậu.

    [​IMG]

    Hoàng Trạch Môn

    Qua Hoàng Trạch, từ mười bảy bậc đá Thanh đi xuống, có ba cây cầu được xây song song nối Phụng Thần Sơn với Tam Tài Sơn. Cầu giữa có tên là Trung Đạo Kiều. Hai bên tả hữu là Tả Phụ và Hữu Bật. Đây vừa là đoạn nối giữa hai nửa hồ Trung Minh, vừa là khúc quanh của dòng nước chảy từ bên trái khu mộ đổ ra cống vòm gần Tả Hồng Môn. Cả ba cây cầu đều được hạ xuống thấp nhất để Minh Lâu dựng lên ngọn Tam Tài Sơn ngày càng cao. Minh Lâu có nghĩa là lầu các ban mai, nơi vua thiền định những đêm hè mát mẻ trong lành, là nơi đi về của linh hồn hoàng đế. Tòa nhà này giống như một chấm vuông kết thúc kiến trúc hình vuông bắt đầu từ Cổng Đại Hồng. Bắt đầu từ đây, các công trình kiến trúc có hình tròn với ý nghĩa đoàn viên. Người xưa cho rằng hình vuông là hữu hạn, hình tròn là vô hạn. Hình vuông hữu hạn tượng trưng cho trái đất. Vòng vô biên tượng trưng cho bầu trời. Khi đang sống “thiên thần” giữa trái đất. Vào thời kỳ “kỷ băng hà” bầu trời sắp trở về cõi trời, tức là cõi vô biên. Chính lúc đó mới có “công thành danh toại”. Cũng với ý nghĩa đó, hai bên Minh Lâu, phía sau trên hai ngọn đồi Bình Sơn và Thanh Sơn là hai cột trụ uy nghiêm mang ý nghĩa vua đã “lập công” trước khi về cõi vĩnh hằng.

    [​IMG]

    Ba cây cầu dẫn đến Minh Lâu. Chính giữa là Trung Đạo Kiều, bên phải là Hữu Bật, bên trái là Tả Phụ.

    Từ sân sau Minh Lâu, nối với sân trước cầu Thông Minh Chính Trực, được lát bằng đá thanh, dài 49m, rộng 4m, hai bên có lan can mỏng vắt ngang qua hồ Tân Nguyệt để vào Bửu Thành. Hồ có hình trăng non ôm lấy Bửu Thành, được ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” chính là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Đây là biểu hiện tài năng của mặt trăng và mặt trời tượng trưng âm dương của người xưa. Mặt trăng (âm) được thể hiện bằng bán nguyệt hồ là thượng nguyệt giữa Minh Lâu (đất vuông) và Bửu Thành (trời tròn) làm hàm chuyển từ vuông sang tròn, từ thế giới hiện thực sang cõi vô biên.

    Hai đầu cầu Minh Chính Trực có hai bộ cửa hình trụ gọi là Nghi Môn. Bửu Thành là nơi an nghỉ của vua, nằm ở trung tâm ngọn đồi có tên là Khai Trạch Sơn, có chu vi 270m. Đỉnh đồi là trung tâm của Bửu Thành và nằm ngay trên trục tâm linh. Đây là khu vực có nhiều cây cổ thụ, phần lớn là thông nên quanh năm che bóng mát. Bên ngoài Bửu Thành là một vòng tròn của hồ Tân Nguyệt, tiếp đến là một vòng La Thành mềm mại, cũng uốn khúc theo cùng một hướng. Độ dốc giàn tạo thành một vòng tròn trung gian giữa La Thành và những ngọn núi xanh xa xăm hòa vào đường chân trời tạo nên một khoảng không gian đang dần mở rộng, và tâm của những vòng tròn đồng tâm này chính là tâm của Bửu bối. Thành: điểm vĩnh hằng của “thiên thần”, là trung tâm của vũ trụ trong cõi vô cực như muốn nói lên khát vọng ôm trọn trái đất và khát vọng thống trị vũ trụ của vị vua quá cố.


    Lăng Minh Mạng với kiến trúc mạng đậm nét Trung Hoa, trái phải Long Hữu Hộ

    [​IMG]


    Theo “Đại Nam Thực Lục”, linh cữu của vua Minh Mạng từ Thuyền rồng đậu bên bờ sông Hương vào ngôi nhà lợp cỏ bên hữu Bửu Thành, rồi rước vào đại đạo (đường hầm) qua 3 cửa đá. vị trí chôn cất. Chỉ có một số quan chức thân tín nhất mới biết được thi hài của vua Minh Mạng được đưa vào đường hầm nào. Ngày nay, cổng lên đồi Khai Trạch luôn bị khóa chặt vì người dân không biết chính xác nơi chôn cất vua, sợ lỡ giẫm phải rồng của vua.
    Nhìn trên biểu đồ, dọc theo trục đạo từ Đại Hồng Môn đến điểm sau Bửu Thành, thân người đang nghỉ ngơi như một tư thế rất thanh thoát của một con người, đầu gối lên núi Kim Phụng, hai chân duỗi thẳng hợp lưu. của sông Hương, sông Tả Trạch, sông Hữu Trạch, hai nửa hồ Trung Minh như những cánh tay đầu hàng thiên nhiên. Rừng thông thâm u, thưa thớt khiến những khóm trúc bên trong như ẩn như hiện, nhưng lại như hiện ra dưới những tán lá xanh tạo nên sự giao hòa, đồng điệu giữa con người và thiên nhiên.

    [​IMG]

    Đến thăm lăng Minh Mạng, du khách ngỡ như lạc vào không gian của hội họa, thơ ca và triết lý. Sự uy nghiêm, thanh bình của kiến trúc và khung cảnh gợi tình của thiên nhiên, hoa lá thể hiện đức tính nghiêm minh, kiến thức uyên bác và tâm hồn lãng mạn của bậc đế vương.
     

Chia sẻ trang này

Loading...