1. Phân biệt tiền điện tử với tiền ảo và tiền phương pháp số
Đối với tiền ảo (virtual currency), ECB định nghĩa như sau: “Đồng tiền ảo là một loại tiền kỹ thuật số không chịu sự quản lý, được phát hành bởi những người tăng trưởng phần mềm (developers) thường cùng lúc là người kiểm soát hệ thống; được dùng và bằng lòng thanh toán giữa các thành viên của một cùng đồng ảo nhất mực”. Tỉ dụ, tiền ảo Pokecoins trong trò chơi Pokemon GO hoặc khoản tiền Facebook được sử dụng cho truyền bá hay những trò chơi trên app Facebook… Theo đó, có thể thấy tiền ảo và tiền điện tử rất khác nhau. Tiền ảo không hề là tiền pháp định nên ko gắn với quyền mặc định được chuyển đổi sang tiền pháp định và được NHTW đảm bảo. Các đơn vị phát hành tiền ảo cũng không chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ của NHTW. Đồng thời, khuôn khổ hoạt động của tiền ảo thường khá hẹp chỉ trong phạm một cùng đồng và sử dụng cho mục đích cố định (thí dụ, game online). Nói cách khác, tiền ảo mang phổ quát đặc điểm của hàng hóa bàn luận hơn là một đồng tiền. Mặc dù vậy, hiện nay tiền ảo đang từng bước tăng trưởng với loại tiền ảo có thể quy đổi (convertible virtual currency) nhưng chỉ gắn trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành mà ko gắn với trách nhiệm của NHTW và phạm vi hoạt động cũng chỉ ở khuôn khổ một cùng đồng như nêu trên.
Còn tiền kỹ thuật số hay tiền mã hóa (crytocurrency): được tạo ra bởi các thuật toán mã hóa phức tạp, được đàm phán, trao đổi hoàn toàn trên môi trường Internet và hiện nay chưa chịu sự quản lý của bất kỳ cá nhân hay doanh nghiệp nào (trừ khi được NHTW trực tiếp phát hành). Tỉ dụ tiêu biểu của tiền công nghệ số là Bitcoin, Ethereum… Có thể xác định gốc của tiền mã hóa là tiền ảo nhưng đang vững mạnh để có đa dạng đặc điểm của tiền điện tử như khả năng chuyển đổi thành tiền pháp định, khả năng thanh toán, còn khả năng tích trữ trị giá thì ít hơn (do luôn biến động nhiều)… Mặc dầu vậy, tiền công nghệ số vẫn còn khoảng cách rất xa để trở thành tiền điện tử với lý do quan trọng nhất là sự xác nhận của NHTW tất cả quốc gia. Lúc NHTW tất cả các nước ko thừa nhận, đồng bạc công nghệ số sẽ ko được đảm bảo và ko có khả năng quy đổi ở phạm vi rộng như tiền điện tử. Hiện nay tiền phương pháp số đang được tăng trưởng theo hướng khai thác các lợi thế, Về ưu điểm của kỹ thuật chuỗi khối – blockchain (như chi phí giao dịch thấp, độ an toàn bảo mật cao, dễ dàng, mau chóng…) hơn là theo hướng dùng đồng bạc phương pháp số như 1 đồng tiền thực sự.
Một loại tiền khác cũng thường bị hiểu nhầm đó là tiền di động (mobile money), nghĩ rằng tiền di động và tiền điện tử không giống nhau. Tuy nhiên, theo định nghĩa của Hiệp hội thông tin di động toàn cầu (GSMA), Mobile money có thể được hiểu ngắn gọn là tiếp cận nhà sản xuất nguồn vốn qua điện thoại di động. định nghĩa này rộng và bao hàm toàn bộ ý nghĩa của dịch vụ này, nhất là trong khoảng góc độ người dùng. Theo ấy, với bản tính là tiền pháp định, tiền di động có thể hiểu là một dạng thức tiền điện tử do công ty (thường là nhà mạng) cung ứng nhà cung cấp trung gian trả tiền phát hành và định danh khách hàng ưng chuẩn hạ tầng dữ liệu thuê bao di động. Dạng thức này chính là ví điện tử trên thuê bao di động, ko cần kết liên với tài khoản ngân hàng. Doanh nghiệp nguồn vốn quốc tế (IFC) cũng nghĩ rằng, mobile money là một dạng tiền điện tử, trong đó các thương lượng trả tiền và vốn đầu tư được thực hiện trên điện thoại di động, có thể trực tiếp hoặc ko trực tiếp gắn với account nhà băng.
hai. Quy định về tiền điện tử tại Việt Nam
Tại Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào quy định khái niệm tiền điện tử. Tuy vậy, một vài văn bản đã quy định những dạng thức của tiền điện tử gồm ví điện tử, thẻ trả trước… như tại Luật ngân hàng Nhà nước (2010), Luật các tổ chức tín dụng (2010), Nghị định số 101/2012/NĐ-CP của Chính phủ về trả tiền ko dùng tiền mặt và Nghị định số 80/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung 1 vài điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP, Thông tư số 19/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng (được sửa đổi bởi Thông tư số 26/2017/TT-NHNN). Hiện nay, Dự thảo Nghị định quy định về trả tiền ko dùng tiền mặt sửa đổi đã thống nhất đưa ra khái niệm rõ ràng về tiền điện tử:“Tiền điện tử là giá trị tiền tệ lưu trữ trên các dụng cụ điện tử được trả trước bởi quý khách cho ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đơn vị cung ứng dịch vụ trung gian trả tiền để thực hiện giao dịch trả tiền và được đảm bảo giá trị tương ứng tại nhà băng, bao gồm: thẻ trả trước, ví điện tử, tiền di động”.
So sánh với các khái niệm trên toàn cầu, có thể thấy định nghĩa trong dự thảo hơi phù hợp và có phần dễ hiểu, rõ ràng và dễ phân biệt hơn. Quan trọng hơn là việc thống nhất đưa cả 3 loại hình tiền điện tử vào văn bản pháp lý không chỉ giúp giới hạn rõ ràng khuôn khổ của tiền điện tử mà còn giúp công tác điều hành được thống nhất về một mối lái là NHNN, từ ấy lấp được lỗ hổng trong công việc điều hành đối với mobile money hiện vẫn đang để trống.
đồng thời, những quy định trong dự thảo can dự tới tổ chức phi ngân hàng cũng giúp phân biệt rõ công ty phát hành tiền điện tử hợp pháp (được cấp phép, giám sát hoạt động) với công ty hoạt động ko phép, bất hợp pháp. Qua đấy, giúp phân biệt rõ giữa tiền điện tử “hợp pháp” với tiền ảo, tiền điện tử “bất hợp pháp”, giúp các cơ quan có thẩm quyền trong ngăn ngừa các hành vi tù túng trong ngành này vốn dĩ diễn biến phức tạp thời kì qua.
Nắm bắt xu thế, cập nhật thông báo về sàn binance có uy tín không tại Việt Nam
Ads by 098.151.5060